Skip to content

BÍ MẬT CUỘC HỒI SINH CỦA MỘT DÂN TỘC

August 14, 2012

BÍ MẬT CUỘC HỒI SINH CỦA MỘT DÂN TỘC
Bộ Kinh Do Thái đúng là một bộ niềm tin (set of beliefs). Chính niềm tin này đã thành chủ đạo dẫn lối dân tộc Do Thái qua bao thăng trầm của lịch sử hẩm hiu chẳng kém Việt Nam. Châu Á là nơi phát sinh những tôn giáo lớn cho thế giới, như Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo… Nhưng không hiểu vì lý do gì, hai nước ở hai đầu của Châu Á là Do Thái phía Tây và Việt Nam phía Đông cùng có chung một số phận long đong. Do Thái đã đóng vai trò sử mệnh trong việc hình thành cái nôi cho việc phát sinh hai tôn giáo lớn của thế giới là Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo. Liệu Việt Nam có mang một ý nghĩa và sử mạng gì qua những trầm luân suốt bao thế kỷ từ một gia tài của mẹ “một ngàn năm nô lện giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây… và bao nhiêu năm nội chiến từng ngày…?” Có con đường nào mở tới hay vẫn vùi dập trong hầm tối không lối thoát?

I. BÍ MẬT CHO CUỘC TRỞ VỀ CỦA MỘT DÂN TỘC

Lịch sử dân tộc Do Thái có ba cuộc trở về chính. Cuộc trở về đầu tiên được Kinh Thánh ghi lại trong cuốn Xuất Hành từ đất nô lệ Ai Cập. Cuộc trở về gần đây nhất sau gần hai ngàn năm vong quốc, được diễn tả điển hình qua cuốn Về Miền Đất Hứa (Exodus) của Leon Uris với cao điểm là tuyên ngôn năm 1948 thành lập quốc gia Do Thái với thủ đô là Tel Aviv có nghĩa là Đồi Xuân từ sa mạc cát bỏng hoang vu. Nhưng cả hai cuộc trở về này đều được hình thành với nhãn quan của biến cố then chốt: bí mật nào đã đưa đám dân lưu đầy bên Babylon trong cảnh rã rời như một đống xương tàn có sức mạnh làm đứng lên như một đoàn người sống lại đầy sinh khí?

Cũng chính bí mật này đã trở thành Con Đường Mẫu cho tất cả các cuộc trở về của nhân loại, từ những hoán cải nội tâm cá nhân cho đến những cuộc hồi sinh tinh thần của cả một dân tộc.

1. Từ bài hát ”Ta Ngồi Ta Khóc Ta Nhớ Sion”

Trong cảnh lìa xa tổ quốc bị đi lưu đầy, người Do Thái đã vang lên lời sầu thảm qua Thánh Vịnh 137:

Babylon xác héo mòn,

Nhớ thương than khóc Sion từng ngày

Trên bờ liễu rủ đó đây,

Treo đàn xót phận lưu đầy tha hương.

Lũ người đô hộ chẳng thương,

Bắt tôi ca hát tìm đường mua vui.

Làm sao tôi hát Chúa ơi!

Bài ca tụng Chúa ở nơi xứ người.

Salem ta nếu quên ngươi,

Thì bàn tay phải cũng rời thân ta.

Lưỡi tê miệng mở không ra,

Vì tôi quên lãng ngày xa đền thờ.

Giavê xin chớ làm ngơ,

Kìa phường ngỗ nghịch hững hờ khinh khi.

Salem chúng nỡ bạt đi,

Phá tan đền thánh phân ly dân Người.

Trong cơn cùng khổ rã rời,

Thành tâm tin Chúa chờ thời hồi hương.

(Hoàng Vũ chuyển ý thành thơ)

Chắc chắn dân Việt lưu đầy trong cuộc sống tha hương hay ngay trong đất nước mình cũng đã có nhiều bài ca tương tự. Có thể nói, mỗi người Việt là một thảm kịch chỉ có thể viết ra bằng nước mắt hơn là ngòi bút. Phạm Duy đã cố diễn những nấc nghẹn ra bằng lời trong loạt bài ”Hát trên đường vượt biển”:

Bên bờ sông Seine ta ngồi ta khóc

Đã thấm sâu khổ nhục kiếp lưu đầy.

Ma mất mộ tìm không thấy cuộc đời,

Chim mất tổ là thôi hát ngày dài…

Bên bờ sông Seine ta thành tượng đá…

(Ngàn Lời Ca trang 321)

2. Đến Thị Kiến Hồi Sinh

Không ai có thể tin nổi trạng huống của dân Do Thái lưu đầy bi thảm và thất vọng như một đống xương khô nằm rải rác khắp cánh đồng như kiểu ”Killing Fields” mà lại có một chút hy vọng nào được!

Thế mà tiên tri Ezekiel và đám môn đệ của ông đã dám tin vào một cuộc phục sinh Do Thái. Ezekiel là một tư tế đi lưu đầy sang Babylon với dân vào cuối thế kỷ thứ 6 trước Đức Kitô. Sở dĩ ông có niềm tin ấy là vì dưới con mắt ông, Thien Chúa muôn cơ binh vẫn đang dẫn đầu cuộc hành trình của dân tộc ông, mặc dầu đang đi qua đêm đen hãi hùng, đang mò mẫm qua vùng mồ mả đầy xác chết và xương trắng ngổn ngang.

Lịch sử của dân tộc Do Thái phải có một ý nghĩa, mặc dù dưới con mắt của nhiều người là phi lý chán chường. Cái hướng lịch sử này đang được mở tới theo một con đường huyền bí do Đấng Toàn Năng, hay nói theo kiểu người mình là ”cùng tắc biến” trong tinh thần Kinh Biến Dịch. Đã đến lúc xe lịch sử chuyển bánh thì không một sức mạnh nào cản ngăn được nữa. Ezekiel đã thành công trong việc khắc sâu niềm tin này vào tâm khảm những kẻ lưu đầy khi họ phải đương đầu với một tương lai mịt mù đen tối của dân tộc họ qua:

THỊ KIẾN HỒI SINH

Tay quyền phép Đức Giavê chạm đến,

Thần Khí Người chợt giáng xuống mênh mông,

Ngài đem tôi đặt chính giữa cánh đồng,

Ôi ghê rợn đầy xương khô rải rác.

Ngài hỏi tôi ”Xương có nhập với xác?”

Tôi trả lời ”Ngài biết rất tỏ tường”.

Rồi bảo tôi ”truyền sấm chỉ trên xương,

Ta cho chúng Thần Linh và sức sống.

Ta cho gân là sinh lực chuyển động,

Ta cho thịt mọc lấp kín xương người,

Ta căng da và khí lực bởi trời,

Cho dương sức chúng trở về cõi thế.

Để chúng biết một mình Ta Chúa Tể”

Vâng lời Ngài tôi tuyên sấm trên xương,

Sấm truyền xong, kìa huyên náo lạ thường,

Các bộ xương đã từ từ ráp nối,

Cả thịt da mọc đùn lên tựa thổi,

Nhưng vẫn là những đống xác vô tri.

Ngài lại bảo ”Truyền sấm đến tử thi,

Để Thần Khí Ta nhập vào xác ấy”.

Dứt lời truyền, cả đoàn người đứng dậy,

Đông đảo thay người người sát vai chen.

Ngài bảo ”Đó toàn thể Israel,

Ta cho chúng phục sinh từ cõi chết”.

Chúng nhủ thầm ”Xương héo khô gần hết,

Hy vọng gì sắp mục nát tiêu ma”.

Ngài bảo chúng ”Ta mở mộ ngươi ra,

Cứu ngươi sống làm dân Ta tuyển chọn,

Đưa ngươi đến đất lành Ta đã chọn,

Nơi sữa mật triền miên chảy không ngơi,

Cho Thần Lực nguyên khí sống muôn đời,

Ta thi hành lời sấm truyền đã hứa.

(Ezekiel 37:1-14; Hoàng Vũ chuyển thành thơ)

Quả thực, người Do Thái đã dựng lại quê hương của họ từ một niềm tin. Và người diễn lên viễn tượng cho một cuộc tái thiết quê hương chính là Ezekiel.

3. Từ Một Giấc Mơ đến Kế Hoạch Lên Đường

Lịch sử dân tộc Do Thái ở giai đoạn này rất giống hoàn cảnh người Việt ly hương. Sau mấy chục năm sống tại Babylon, người Do Thái đã quen dần với kiếp tha hương, lớp trẻ đã bắt đầu hội nhập lối sống mới . Đa số đã có công ăn việc làm và nhà cửa ổn định. Chuyện quê hương đất nước chỉ còn là đề tài ”văn nghệ” dành cho một số vị cao niên còn thương quê nhớ cội mà thôi. Chẳng ai còn thời giờ mà nghĩ tới ba cái chuyện xem ra lẩm cẩm và lỉnh kỉnh là chuyện trở về đất tổ!

Ấy thế mà một người thuộc thế trẻ, tức là thế hệ thứ hai của lớp người lưu đầy, đã dám gióng lên một chân trời tươi sáng có sức làm xác tín một nhóm nhỏ, vẫn thường được gọi là ”Nhóm Do Thái Sót Lại” (remnant of Israel). Chính nhóm nhỏ này đã làm bừng lên cả một phong trào trở về phục hưng đất nước, gây được hứng khởi nơi cả một lớp người vươn lên khỏi những gì bế tắc tăm tối, bằng một kế hoạch thực tế.

Vị tiên tri đó không ai biết tên, vẫn thường được gọi là Isaia Thứ Hai. Ông đã qui tụ một nhóm gồm những người có chung một viễn ảnh về cuộc phục hưng đất nước, tìm ra tụ điểm tinh thần dân tộc qua việc tìm gom lại ”Bộ Kinh Dân Tộc Do Thái” vẫn thường được gọi là Cựu Ước. Và nhóm nhỏ này bắt đầu một chương trình đào tạo lớp người mới sẵn sàng trở về xây lại quê hương từ con số không.

Có thể nói, dưới con mắt nhiều người, nhóm nhỏ này thật điên dại. Đang an cư lạc nghiệp tại đất mới mà lại dại dột mò về một vùng đất hoang tàn không có một căn bản nào về chính trị, binh bị, tài nguyên! Nhưng lớp người ấy nếu đã không dám làm chuyện ”điên khùng” đó, thì lịch sử nhân loại đã không có được cái nôi phát sinh ra một sức mạnh tinh thần như Do Thái Giáo và Ki-Tô Giáo.

Mấu chốt cho những xác tín và gây phấn khởi cho cuộc trở về bắt nguồn từ :

LỜI SẤM PHỤC HƯNG

Hãy trèo lên mọi núi đồi khắp chốn,

Hỡi Sion hãy loan báo tin mừng,

Mạnh tiếng lên và trổi nhạc tưng bừng,

Mọi thành quách hân hoan: kìa Chúa đến.

Đây Thiên Chúa ngươi tôn thờ yêu mến,

Đến uy hùng Ngài thống trị muôn dân,

Việc Người làm sau trước rất ân cần,

Là mục tử nhân lành ai dám sánh.

Thu họp chiên trong bàn tay chí thánh,

Mgài bế bồng chăm sóc đám chiên con,

Dìu chiên mẹ bồi dưỡng nước suối nguồn,

Cho no thỏa trong đồng xanh cỏ mới.

Ban sức mạnh cho bao người mệt mỏi,

Ngài phục hồi kẻ yếu liệt lâm nguy,

Bao trai tráng cũng rời rã suy vi.

Người già yếu đã ngả nghiêng cùng khổ.

Ai vững tin nơi Chúa Trời bền đỗ,

Ngài ban ơn sinh lực mới vươn lên,

Họ sẽ bay cao thẳm chốn từng trên,

Như phượng hoàng cõi không trung vỗ cánh.

Sức thần Chúa họ sẽ được nhận lãnh,

Dù chạy xa chẳng mệt mỏi hư hao,

Dặm đường trường thanh thản bước chân cao,

Đời sống họ sẽ an nhiên thư thái.

(Isaia 40:9-11; 29-31, Hoàng Vũ chuyển thơ)

Vậy thì bí mật cuộc trở về của dân tộc Do Thái, trước hết và trên hết, chưa phải là những giải pháp như nhiều người đang nghĩ đến về chính trị, quân sự, kinh tế, dĩ nhiên rất ư cần thiết… mà là một Niềm Tin được thể hiện qua một chủ đạo đặt nền trên Bộ Kinh Dân Tộc trong một Thời Điểm đúng nhất.

II. CON ĐƯỜNG NÀO CỦA NGƯỜI LY HƯƠNG?

Hình ảnh bỏ cuộc trốn chạy vẫn in sâu trong tâm khảm nhiều người Việt. Đến một lúc nào đó, người mình cảm thấy rõ mọi sự đều đổ vỡ, buông xuôi, phi lý và vô nghĩa!

Con đường ác mộng từ Pleiku về Phú Yên. Đại lộ Kinh Hoàng từ Quảng Trị về Huế. Con đường vào các trại cải tạo thống khổ. Con đường vượt biên thây con chất biển Đông, xác vợ chết nhục nhằn vùi dập. Ôi những con đường Việt Nam mang nặng thương đau. Còn lại gì cho mình và còn lại gì cho nhau?!

1. Từ Người Tình Già Trên Đầu Non

Nhạc Sĩ Phạm Duy đã tài tình diễn tả được vết thương nội tâm sâu thẳm nhất của người lưu đầy trong Mười Bài Rong Ca Hát Cho Năm 2000. Già nua chưa hẳn vì tuổi tác mà vì những vết hằn phi lý trong cuộc đời ô trọc đầy oan nghiệt này.

Người tình già trên đầu non

Tuyết đã tan trên vai mỏi mòn

Giữa đám mây xanh xao chập chờn

Nhìn mặt trời thoi thóp hoàng hôn.

Người tình già trên đỉnh khơi

Muốn lãng quên trăm năm một đời…

(Ngàn Lời Ca trang 361)

Đó là tâm trạng của những người bỏ cuộc, tìm quên. Nhưng rồi chả lẽ tự tử như con chim quyên ”nhớ nước đau lòng con quốc quốc” mà cắn cổ chết trên ghềnh đá ly hương?! Hoặc có lúc nào đó ngồi suy nghiệm về cuộc đời mà bằng lòng bao dung tha thứ và bình thản chấp nhận được cuộc đời như Phạm Duy trong bài ”Những gì Sẽ Đem Theo Về Cõi Chết”.

Rồi mai đây tôi sẽ chết

Trên đường về nơi cõi hết

Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?…

Tôi không đem theo với tôi cả buồn vui mấy nỗi…

Tôi sẽ không đem theo với tôi những gì đâu!

(Ngàn Lời Ca trang 169-170)

Hoặc siêu thoát như một nhà thiền nhìn dòng đời trong cuộc tử sinh này như là Bài Hát Nghìn Thu:

Nghìn thu anh là suối trên ngàn

Thành sông anh đi xuống, anh tuôn tràn biển mơ.

Nghìn thu anh là sóng xô bờ

Vào sông em đi mãi, không bao giờ biển vơi….

Nghìn thu trăng chợt sáng hay mờ

Lặng im anh lên xuống không ai ngờ hiển nhiên…

(Phạm Duy, Ngàn Lời Ca trang 371)

Lớp người khác, đa số thuộc lớp trẻ trung hơn, có lẽ ưa thực tế với những hồ hởi mới. Vùi đầu vào cuộc chơi mới, với những lo âu tìm kiếm mới. Lo kiếm sống, lo trả tiền nhà tiền điện. Lo học thêm để có việc làm cao lương hơn để có thể trả nợ nhà hàng tháng giá cao hơn. Cái vòng luẩn quẩn này quay người lưu đầy như quay dế ném vào chỗ đấm đá. Đến một lúc nào đó giật mình tự hỏi về sự hiện diện của mình trên mảnh đất ly hương này, như Lê Bi đã tự đặt vấn đề trong ”Một Đoạn Thơ Xuôi Trích Từ 1990” (Thế Kỷ 21, tháng 8.90 trang 46):

“Có người bảo đất nước chúng ta may mắn có hàng triệu ông bà đại sứ. Có người bảo đó là hàng triệu du học sinh. Có người bảo đó chỉ là những kẻ đi kiếm bơ thừa sữa cặn!”

2. Đến Bầy Chim Về Tổ

Nếu hai môn đệ trên đường Emmaus đã chợt thức tỉnh khi nghe người đồng hành bên cạnh kể truyện về Đức Kitô, thì người lưu đầy cũng đang tìm ra ý nghĩa của bao nhiêu chuyện xem ra phi lý:

”Vậy thì Đức Kitô chẳng phải chịu như vậy rồi mới được vinh quang sao?”

Mấu chốt của câu truyện là hai môn đệ chợt nhận ra Chúa KiTô đã phục sinh và đang hiện diện thực trong cuộc sống của mình qua mọi biến cố. Và ngay lúc đó, họ trở về Giêrusalem báo tin cho các môn đệ khác.

Người Việt lưu đầy nhìn lại những biến cố hãi hùng bỗng dưng nhận ra một sợi chỉ mầu nối liền những gì rời rã nhất, cảm thấy một chất Đạo biến đổi kỳ lạ. Tất cả đều đang mang một ý nghĩa huyền bí nào mà chỉ Đấng dẫn mình đi thấy rõ.

Phạm Duy đã thực rất “đạo” khi hoàn tất tổ khúc ”Bầy Chim Bỏ Xứ”. Từ nội dung tổ khúc có lẽ nên gọi là ”Bầy Chim Về Tổ” thì có vẻ tươi sáng và hợp thời điểm hơn.

Con chim trốn chạy tự tử chết năm nào đã tái sinh thành con chim én bay lên từ mùa đông tàn lụi để báo tin mùa xuân dân tộc đã đến:

Nhạn kia ríu rít trời xanh

Én kia chắp cánh bay quanh địa cầu….

Én kêu gọi bao chim bạn cùng nghe

Một trời xuân đã bát ngát trên đường về

Tôi hiểu loài chim đã hót tiếng xuân tràn trề.

3. MỘT VIỆT NAM PHỤC SINH

Bài hát vang lên như lời sấm về một Việt Nam Phục Sinh từ ”mộ phần thế kỷ” khi mà

Người phu trong chiều buông,

lòng hân hoan chôn mộ xong,

nghe mùa xuân đang rộn rã tới gần…

Mai đây nấm mồ một nụ vàng sẽ hé…

Hoa ơi tên gì? Có phải hoa hướng dương?

(Phạm Duy, Ngàn Lời Ca trang 366)

Và người nhạc sĩ tài ba mà những sáng tác đã như dòng hơi thở quê hương, như nhịp tim đập thổn thức từng gắn liền với vận nước nổi trôi của đất nước từ hơn nửa thế kỷ qua, đã hân hoan ”chắp cánh bay lên”.

Đoàn con đang xâu xé nhau vì ý thức hệ ngoại lai và vong bản, bỗng dưng cùng nhìn thấy một thị kiến ”Bầy Chim Huyền Sử” 100 con của Chim Âu Tổ Mẫu đang cùng bay về non ngàn Tản Viên, ngọn núi thiêng chất chứa tự hào dân tộc với ”sách ước gậy thần” của sức mạnh tinh thần dân tộc.

Và đàn con đang tan tác lang thang tìm bơ thừa sữa cặn khắp hang cùng ngõ hẻm trên thế giới nghe được tiếng hồn thiêng sông núi, bỗng chợt tỉnh bay thoát ra khỏi những bế tắc ngột ngạt thường ngày, thoát ra khỏi những lẩm cẩm trong những cơ cấu tổ chức giẵm chân tại chỗ hay những xung khắc đẳng vị của những sinh hoạt đoàn thể, để cùng vươn lên trong một lý tưởng chung:

Trứng rồng lại nở ra rồng,

Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

Trứng rồng lại nở ra rồng

Chim tiên lại đẻ ra dòng chim tiên.

……….

Lặng nghe,

Đây con chim Hồng, đây con chim Lạc.

Hỡi những cánh chim huyền sử xa vời.

Lặng nghe,

Đây con chim Hùng, đây con chim Việt.

Hỡi những cánh chim của Tiên với Rồng.

Những cánh chim ẩn ngữ Đông Sơn, hòa nghĩa âm dương.

Những cánh chim dẫn đường đưa lối.

Những cánh chim sinh tử không rời.

Vỗ cánh theo cha về miền xuôi,

Vỗ cánh bay theo mẹ lên núi….

III. TRONG DÒNG SINH MỆNH DÂN TỘC

Thế kỷ 21 đã bắt đầu. Niềm tin và trách nhiệm nào cho người lưu đầy trước tiền đồ dân tộc? Chả lẽ vùi đầu vào cát an phận để khoán trắng vận mạng dân tộc cho người ngoài lo hay cứ ngồi tiếp tục than trách đổ tội?!

“Nguyễn Trường Tộ! Giá còn sống chắc bản điều trần của ông không cần gởi đến một vua Tự Đức, mà phải dâng lên tận mỗi lòng người. Đừng đổ tội cho phong kiến. Đừng đổ tội cho thực dân. Đừng đổ hết đế quốc. Đừng đổ hết cho đám tay sai bản xứ. Đừng đổ hết cho những kẻ cửa quyền…. Mấy năm qua tôi nuốt nhục nghe mà chưa thể tìm nổi lời biện bạch.” (Lê Bi, trích dẫn trên, trang 46)

Thời điểm nào cho người lưu đầy đối với đất nước? Người Do Thái cũng đã hỏi như vậy trước thống khổ quê hương:

“Có những người Biệt Phái và bè Sađoc đến và để thử Ngài, thì xin Ngài làm một dấu lạ từ trời cho họ xem. Đáp lại, Ngài nói với họ: Chiều đến các ông nói: ”Ráng vàng thì gió”, và sớm mai: ”hôm nay ráng đỏ thì mưa”.Ráng trời, các ông biết ước định, còn về thời điểm các ông lại mù tịt!” (Mt 16:1-3)

Hiện nay những phong trào về nguồn tinh thần dân tộc đang lan rộng. Tìm ra bản sắc mình là vấn đề sinh tồn trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Thu lượm tinh hoa thế giới để góp phần của mình vào công việc xây dựng lại đất nước là bổn phận hàng đầu. Mỗi người với khả năng và vị thế đang có của mình đều có cái nợ phải trả cho tổ quốc.

Nhịp tim quê hương đang đập dồn dập. Ai là người bắt đầu hòa vào nhịp sống này để khơi cho dòng sinh mệnh dân tộc chảy tới?

Đức Giêsu nói với đám đông người Do Thái đang nghe Ngài:

“Ta sẽ lấy ai mà ví cái thế hệ này? Họ giống như lũ trẻ ngồi nơi chợ mà gọi lũ trẻ khác rằng: ”Chúng ta thổi sáo, sao chúng bay không múa?! Chúng ta than vãn, sao chúng bay không đấm ngực?!” (Mt 11:16-17).
Tác giả Trần Cao Tường, Lm.

Leave a Comment

Leave a comment